Máy nước công cộng
Từ những năm 1980 trở về trước, Hà Nội còn nhiều vòi nước máy công cộng đặt tại một số đường phố, trong các ngõ xóm và khu tập thể. Đó là Hà Nội của cái thời có 4 quận nội thành, mấy chục vạn dân.
Đó là cái thời Hà Nội chống Mỹ. Chỗ đặt vòi nước công cộng là một khoảng đất được láng xi măng cẩn thận, có chỗ thoát nước. Mỗi một chỗ như vậy thường có 2 vòi nước, quay ra hai hướng.
Người Hà Nội lúc đó có thói quen gánh nước. Đôi thùng bằng tôn, to nhỏ tùy theo sức của từng nhà. Đôi móc xích và cái đòn gánh. Nhiều nhà ở gần còn mang quần áo ra giặt ở ngay máy nước, cho tiện. Vào lúc đêm khuya, có người còn tắm luôn ở đấy.
Quanh cái vòi nước công cộng, có lắm chuyện cười ra nước mắt. Những lúc trời nắng, nước máy chảy nhỏ giọt. Có khi thức cả đêm xếp hàng lấy nước. Cũng hình thành một nghề là nghề gánh nước thuê. Đêm giao thừa một năm đầu những năm 1960, Bác Hồ đi thăm một gia đình nghèo ở phố Lý Thái Tổ, gặp lúc người mẹ góa của mấy đứa con đang đi gánh nước. Cũng vào thời ấy và chắc là trước đó nữa, người Hà Nội có lệ là đến giao thừa, bể nước nhà nào cũng phải đầy để đón một năm mới đầy đủ, cũng là đầu năm không phải đi gánh nước, sợ “dông cả năm”.
Chuyện tôi kể sau đây xảy ra vào đầu những năm 1970. Hai chuyện tưởng không có gì liên quan đến nhau, nhưng thực ra là có. Cả hai chuyện đều liên quan đến hai người bạn trai cùng trang lứa với tôi.
Người thứ nhất học lớp I 16 Khoa văn Đại học Sư phạm Hà Nội (1969 - 1973). Chàng là sinh viên nghèo, yêu một cô bạn cùng lớp người Hà Nội. Nhiều đêm đi chơi với nhau (dĩ nhiên bằng xe đạp của nàng), khuya về khát nước quá, cả hai ra vòi nước công cộng tu một hơi. Thế là đỡ khát. Về sau hai người nên vợ nên chồng. Nàng dạy cấp III, còn chàng trở thành tiến sĩ, giáo sư đại học. Đời sống sung túc hơn, nhưng cả hai không quên chuyện cái vòi nước và một tình yêu thật đẹp.
Người thứ hai học Sư phạm 10+3 Hà Nội. Một đêm, đi chơi khuya về, xe đạp của chàng tuột xích. Loay hoay lắp lại, bàn tay lấm lem dầu mỡ. Đi ngang qua chỗ máy nước trên đường Phùng Hưng (gần đoạn phố Hà Trung) thấy một nàng trạc tuổi mình ngồi giặt quần áo. Chàng dừng xe bên vệ đường, hỏi xin tí xà phòng rửa tay và ngắm trộm dung nhan của nàng. Chuyện qua chuyện lại, chàng biết nàng không đi học, mà đang đi làm. Chuyện say đến mức chàng quên cả đoạn đường về nhà còn xa, ngồi vò quần áo với nàng. Đêm sau, đêm sau nữa, chàng lại qua đoạn đường Phùng Hưng đón nàng ở chỗ máy nước, trò chuyện dăm ba câu cho tới lúc biết được tên nàng, chỗ làm của nàng, địa chỉ gia đình. Và thế là chàng và nàng yêu nhau. Khi hai người trao cho nhau nụ hôn đầu tiên, cũng là lúc chàng có giấy gọi nhập ngũ. Luyện quân ở Hòa Bình, chàng nổi tiếng trong đơn vị vì có người yêu đến thăm. Đợt ấy, chàng đi mãi không trở về. Người yêu của chàng đến khi gần 40 tuổi, mới chịu lấy chồng - một anh bộ đội phục viên.
Bây giờ, đi lại trên đường phố Hà Nội đông đúc từ sáng sớm đến khuya, lại từ khuya đến sáng sớm, tôi nhớ da diết cái thời ngửa cổ uống một ngụm nước từ vòi nước công cộng và thấp thoáng trong tâm trí những cô gái Hà Nội, tóc tết đuôi sam ngồi giặt quần áo bên vòi nước máy ở vỉa hè.
"Hà Nội của ta, một thời đạn bom - một thời hòa bình" với những con người chân chất, giản dị. Có thế mới có được những đôi lứa yêu nhau như vậy./.