Phố Lý Quốc Sư

Phố Lý Quốc Sư dài 241m, đi từ phố Hàng Bông đến phố Nhà Thờ. Phố có từ lâu đời, từ đầu thế kỷ XIX đã là một phố phủ, rồi là một phố huyện, lúc nào cũng dập dìu xe ngựa.  

Lý Quốc Sư – “Quốc sư triều nhà Lý”, theo chính sử thì đó là Nguyễn Chí Thành, người làng Điềm Xá (huyện Gia Viễn, nay thuộc tỉnh Ninh Bình). Ông tu Phật lấy hiệu là Minh Không thiền sư. Do đạo cao đức trọng, ông được vua Lý dựng “tinh xá” cạnh chùa Báo Thiên làm nơi tu hành. Tinh xá (nơi ở tinh khiết) ấy nay chính là khu chùa Lý Quốc Sư số nhà 50. Năm 1136, ông chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông nên được phong là Quốc sư. Ông mất vào tháng 8 năm Tân Dậu (1141).

Đó là kể theo chính sử, còn theo truyền thuyết thì ông không những là một nhà tu hành giỏi nghề chữa bệnh mà còn là ông tổ nghề đúc đồng. Và dường như lại còn có sự lầm lẫn giữa sự tích ông với sự tích Dương Không Lộ cũng là một nhà sư đời Lý.

Phố Lý Quốc Sư dài 241m, đi từ phố Hàng Bông đến phố Nhà Thờ. Đây nguyên là đất thôn Tiên Thị, tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương cũ. Phố có từ lâu đời, từ đầu thế kỷ XIX đã là một phố phủ, rồi là một phố huyện, lúc nào cũng dập dìu xe ngựa. Thời đó, làng Tiên Thị là phủ lỵ phủ Hoài Đức và phủ đường (trụ sở) thì ở ngay sau lưng Chùa Lý Quốc Sư lúc này gọi là đền Tiên Thị, có lắm hàng cơm, quán trọ ở đây. Tương truyền là Hồ Xuân Hương cũng có mở một ngôi hàng nước ở đây để thử tài thiên hạ. Năm Minh Mạng 14 (1833), phủ lỵ dời ra làng Dịch Vọng (huyện Từ Liêm). Nhưng 9 năm sau, năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), huyện lỵ huyện Thọ Xương từ thôn Văn Hương (phố Hàng Bột ngày nay) lại chuyển tới đây và tồn tại cho tới khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, giải thể huyện Thọ Xương.

Chùa Lý Quốc Sư

Sở dĩ có tên gọi phố Lý Quốc Sư là vì ở cuối phố, số nhà 50 có ngôi chùa nổi tiếng tức chùa Lý Quốc Sư vừa nói ở trên. Theo chính sử, chùa có từ đời Lý, năm 1141 chuyển từ “tinh xá” thành đền thờ Quốc Sư minh không. Tất nhiên, tới nay đã qua nhiều lần sửa chữa, quy mô hiện nay là do lần trùng tu năm 1954. (Trong những ngày đầu của cuộc Toàn quốc kháng chiến, giặc Pháp đã hủy hoại chùa này).

Trong chùa cón tấm bia do Tiến sĩ Lê Đình Duyên soạn năm Tự Đức thứ 8 (1855) nói về lần trùng tu lớn vào năm đó. Hiện nay, trong đền có nhiều tượng phong cách điêu khắc đời Lê, có một cái chuông tên là “Báo Tháp từ chung” tức là “chuông đền Báo Tháp” (Báo Thiên, Tự Tháp?), niên hiệu Ất Hợi, với chữ Long (trong Thăng Long) đã đổi cách viết từ đời Gia Long, do đó có thể là Ất Hợi 1815 hoặc Ất Hợi 1875.

Ở giữa phố Lý Quốc Sư còn có một ngôi đền cổ nữa. Đó là đền Phù Ủng ở số nhà 25. Đây là nơi thờ vọng Phạm Ngũ Lão, người anh hùng làng Phù Ủng, do chính dân làng này di cư lên Thăng Long dựng nên từ thế kỷ XIX. Đền này cũng từng bị giặc Pháp phá hoại năm 1947, được sửa lại năm 1949.

Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ vừa qua, phố Lý Quốc Sư cũng là nơi ghi lại tội ác của giặc Mỹ: Trưa ngày 6/10/1972, máy bay Mỹ đã bắn tên lửa xuống các nhà số 37, 39B, sát hại nhiều người dân. Ngay sau đó, ở bức tường trước ngôi nhà 39B có tấm bảng ghi lại tội ác này.

Thời Pháp thuộc, đây gọi là phố Rue Lamblot. Cũng trong thời kỳ này, dãy nhà 24 – 25 vào những năm 20 là trường Trung Bắc, một trường tư thục do nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh sáng lập. Giáo sư Nguyễn Lân khi đó vừa tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm đã dạy ở trường này. Sau khi bị Pháp o ép, phá sản, ông Vĩnh bán lại cho ông Ngô Tử Hạ. Ông Ngô chuyển nhà in từ Hàng Gai về đây. Nhà in tồn tại mãi tới năm 1955 thì hợp doanh thành Nhà in Thống nhất. Ngày nay, tường vào được mở bung thành nhiều cửa hàng: Tăng âm, nhạc cụ, y phục lộng lẫy. Mà không cứ gì nhà in, bên dãy chẵn này có những cửa hàng hấp dẫn như bán đồ cổ (số 2), phở nổi tiếng (số 10), hàng ăn (số 18)…

Bên số lẻ, nhiều cửa hàng ăn hơn: Nguyên Sinh (17) từ Thuốc Bắc chuyển về, nổi tiếng về “Cơm Tây”, Nhà hàng Mỳ Ý (29), cửa hiệu Ô mai sấu (41)… rồi các hàng may mặc (37, 41D, 45, 47B…). Đặc biệt, ngôi nhà 43 là nơi ở từ lâu lắm rồi của tác giả bài thơ “Lá diêu bông” một thời thu hút nhiều văn nghệ sĩ tới “đưa cay”.

Cũng thời Pháp thuộc, phố này có một cơ sở văn hóa cũng khá nổi tiếng: Nhà xuất bản Tân Việt ở số nhà 29, nơi đã in nhiều sách triết học của Nguyễn Đình Thi, nhiều sách dịch các tác phẩm văn học Trung Quốc của nhà văn Nhượng Tống tài hoa cùng các đặc san tập hợp nhiều danh sĩ đương thời: Trương Tửu, Nguyễn Tuân, Đinh Hùng, Phiêu Linh Nguyễn Đức Chính…

Tên gọi hiện nay được đặt sau Cách mạng 1945./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên
Viết bình luận

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.